MẢNH GHÉP TRONG TÁI TẠO DÂY CHẰNG CHÉO TRƯỚC

Dây chằng chéo trước (ACL) là dây chằng thường bị thương nhất ở những người chơi thể thao. Có nhiều loại mảnh ghép khác nhau để tái tạo ACL bao gồm:

  • Mảnh ghép tự thân [xương gân bánh chè (BPTB), gân kheo (HS) v.v.],
  • Mảnh ghép đồng loại
  • Mảnh ghép tổng hợp.

Mảnh ghép lý tưởng để tái tạo ACL là mảnh ghép tương tự về mặt cơ sinh học với dây chằng tự nhiên, dễ dàng thu hoạch, ít biến chứng tại vị trí thu hoạch, có thể đảm bảo chắc chắn và kết hợp tốt với xương. Xem xét các tài liệu gần đây cho thấy rằng không có mảnh ghép lý tưởng nào để tái tạo ACL và việc tìm kiếm mảnh mảnh ghép tối ưu vẫn đang tiếp tục. Mỗi mảnh ghép đều có những ưu điểm và nhược điểm.

Mảnh ghép tự thân được sử dụng phổ biến hơn so với mảnh ghép đồng loại hoặc mảnh ghép tổng hợp. Ba phương pháp mảnh ghép tự thân thường được sử dụng là mảnh ghép BPTB, HS và mảnh ghép gân cơ tứ đầu đùi (BQT). Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, việc sử dụng mảnh ghép đồng loại ngày càng tăng. Mảnh ghép đồng loại được sử dụng để tái tạo ACL chủ yếu trong 20–30% trường hợp ở Hoa Kỳ, mặc dù vậy mảnh ghép này vẫn còn hạn chế thực hiện tại Việt Nam ( cần quy trình thực hiện và Ngân hàng Mô để thu thập và bảo quản). Mảnh ghép tổng hợp để tái tạo ACL trở nên phổ biến vào năm 1980 nhưng sau sự nhiệt tình ban đầu, mức độ phổ biến giảm do kết quả trung hạn kém. Trong các đoạn tiếp theo, chúng tôi sẽ thảo luận về những ưu điểm và nhược điểm của các mảnh ghép được sử dụng để tái tạo ACL.

1. Gân bánh chè: Bone patellar tendone bone (BPTB)

BPTB trong lịch sử đã được coi là “tiêu chuẩn vàng” để tái tạo ACL. Ghép tự thân BPTB thường được lựa chọn vì kết quả lâm sàng xuất sắc và mức độ hài lòng cao của bệnh nhân khi theo dõi lâu dài. Franke K. lần đầu tiên sử dụng mảnh ghép BPTB bao gồm 1/3 giữa của gân bánh chè với khối xương bánh chè và xương chày kèm theo. Nó cho phép liền xương nhanh chóng trong đường hầm xương chày và xương đùi. Kết quả lâu dài (17–20 năm) cho thấy 83% bệnh nhân có các chức năng ổn định, bình thường hoặc gần bình thường, 1,6% bệnh nhân cần tái tạo ACL . Nó có độ bền và độ cứng cao, kích thước mảnh ghép đồng nhất, dễ thu hoạch và có thể được cố định rất tốt trong ống tủy bằng vít can thiệp. Các biến chứng bao gồm đứt gân bánh chè, gãy xương bánh chè/xương chày, yếu cơ tứ đầu đùi, mất khả năng duỗi hoàn toàn, đau phía trước đầu gối, khó quỳ và tê do tổn thương nhánh dưới xương bánh chè của dây thần kinh hiển. Nên tránh ở những bệnh nhân có nghề nghiệp hoặc lối sống đòi hỏi phải quỳ thường xuyên.

2. Gân Hamstring

Ghép gân Hamstring là một trong những mảnh ghép được sử dụng phổ biến nhất để tái tạo ACL. Gân bán gân có hoặc không có gân cơ thon được lấy từ chân cùng bên. Chúng được sử dụng làm mảnh ghép chập 4 và có thể so sánh với ACL tự nhiên. Ưu điểm của ghép HS là không sợ gãy xương bánh chè/lồi xương chày, giật, đau khi quỳ giảm thiểu bệnh tật tại vị trí cho. Mảnh ghép HS có lực tải trung bình là 2422N so với 1785N đối với mảnh ghép BPTB. Nhược điểm của mảnh ghép HS Mảnh ghép HS làm giảm sức gập đầu gối, liệt dây thần kinh hông khoeo ngoài, sức cố định kém hơn. Kết quả một số nghiên cứu theo dõi lâu dài của mảnh ghép HS lên đến 15 năm cho thấy 75% bệnh nhân đạt kết quả bình thường hoặc gần bình thường. Tỷ lệ vỡ lại là 17 %. Trong khi các nghiên cứu ngắn hạn cho thấy 86–91% kết quả gần bình thường và tỷ lệ tái phát 1,5%.

3. Gân tứ đầu đùi

Gân cơ tứ đầu là một lựa chọn ghép thay thế đầy hứa hẹn để tái tạo dây chằng chéo trước (ACL), có thể được thu hoạch có hoặc không có khối xương cũng như mảnh ghép dày toàn bộ hoặc một phần. Do đó, ghép gân cơ tứ đầu có thể được sử dụng trong tái tạo ACL lần đầu và tái tạo dựa trên các yêu cầu (kích thước đường hầm, vị trí đường hầm, v.v.). Sau khi cắt gân cơ tứ đầu, đặc biệt là ở các cầu thủ bóng đá, những người cần cơ tứ đầu khỏe để đánh bóng có lực, có thể cần phải điều chỉnh quá trình phục hồi chức năng sau phẫu thuật.

4. Gân tổng hợp hay dây chằng nhân tạo

Những lo ngại về mảnh ghép tự thân và mảnh ghép đồng loại để tái tạo ACL đã dẫn đến sự phát triển của ghép tổng hợp. Dây chằng tổng hợp trở nên phổ biến vào năm 1980 và đầu năm 1990. Dây chằng tổng hợp hiện nay đang ở thế hệ thứ ba.

a. Dây chằng tổng hợp được sử dụng đầu tiên là sợi carbon. Các dây chằng thế hệ đầu tiên được dệt kim hoặc bện. Những dây chằng này bị đứt sớm và có xu hướng dài ra. Hai dây chằng thường được sử dụng là PROPLAST (Vitex-Inc., Houston TX, USA) làm bằng Teflon cộng với carbon và  POLYFLEX (Richards, Memphis TB, USA) làm bằng polypropylene. Các biến chứng nghiêm trọng đã được quan sát thấy như vỡ sớm, lắng đọng carbon và viêm bao hoạt dịch khớp gối. Mặc dù có những kết quả đáng khích lệ ban đầu nhưng chúng đã bị loại bỏ.

b. Dây chằng thế hệ thứ hai có thêm các sợi dọc và ngang dệt bện trong đó Dacron và Polytetra fluoroethylene (PTFE) đã được sử dụng. Những dây chằng này cho phép các nguyên bào sợi phát triển, nhưng bị mài mòn, sờn và khả năng chống mài mòn thấp.

  • PTFE (Gore-Tex, WL Gore, AR, USA) được sử dụng trong phẫu thuật mạch máu và đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt. Mảnh ghép này có độ bền kéo 5300N, cao hơn bất kỳ dây chằng thương mại nào khác (ACL tự nhiên ở dân số trẻ có độ bền 1730N). Kết quả ngay lập tức rất đáng khích lệ, nhưng theo dõi hơn một năm cho thấy những thất bại liên quan đến mỏi cơ, thiếu mô trong sự phát triển và sự hiện diện của các mảnh vụn mòn. Tỷ lệ vỡ sau 5 năm theo dõi là 29%, 76% có một hoặc các biến chứng khác và nổi hạch bẹn. Mảnh ghép Gore-Tex (WL Gore, AR, USA) đã bị rút khỏi thị trường vào năm 1993 và vật liệu này đã bị loại bỏ trong phẫu thuật điều trị mất ổn định đầu gối .
  • Dây chằng Dacron (Meadox Medicals, Oakland, NJ, USA) có độ bền kéo 3631N. Nhưng mảnh ghép này cũng thất bại do đặc tính kéo dài (độ giãn dài 18,7%), tỷ lệ đứt gãy cao (40% trong 18 tháng) và tỷ lệ sửa đổi cao tới 34%. Sản phẩm này đã bị rút khỏi thị trường vào năm 1994.

c. Mảnh ghép tổng hợp thế hệ thứ ba có phần ngoài khớp được dệt kim với các sợi dọc tự do chống lại sự giãn dài nhưng không có bất kỳ dải bện nào, để giảm các mảnh vụn do mài mòn. Các chất tổng hợp được sử dụng hiện nay là hệ thống tái tạo tăng cường dây chằng (LARS, Corin, Gloucestershire, UK) và Leeds-Keio (Xieris ple Neoligament Leeds, UK). Tuy nhiên, việc sử dụng chúng vẫn còn gây nhiều tranh cãi do thiếu các nghiên cứu tiến cứu theo dõi kết quả điều trị.

Nguồn: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/20514263/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *